Xử lý lỗi là một công đoạn quan trọng mà không thể thiếu trong lập trình. Một chương trình có tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc này. Khi một tính năng được xử lý lỗi đúng cách nó có thể giúp cho lập trình viên giảm tải được nhiều rủi ro sau này.
Một lỗi xảy ra thường do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan. Lỗi xảy ra do người lập trình vô ý bỏ sót trường hợp, lỗi chính tả, lỗi do không lường trước được sự chồng chéo logic... cho đến những lỗi từ phần cứng, phần mềm, kết nối mạng... Nói như thế để cho bạn đọc hình dung lỗi luôn chờ trực cơ hội để được bung ra ngay lập tức.
Trong Rust, chúng ta có 2 dạng lỗi là: Lỗi không thể phục hồi và Lỗi có thể phục hồi.
Lỗi không thể phục hồi để ám chỉ khi gặp lỗi này, Rust sẽ ngay lập tức dừng chương trình, dọn dẹp sạch sẽ bộ nhớ và in ra thông báo lỗi kèm vị trí chính xác nơi xảy ra lỗi.
panic!
là một macro tạo ra lỗi không thể phục hồi. Khi gọi panic!
, tức là chúng ta muốn dừng chương trình ngay lập tức.
Thông thường các lỗi panic nên được đẩy ra khi có hành vi nguy hiểm đến chương trình. Ví dụ như truy cập vào một thuộc tính không có sẵn:
fn main() {
let v = vec![1, 2, 3];
v[99];
}
Rõ ràng vị trí thứ 99 không tồn tại trong v
, nên điều hợp lý nhất ở đây là Rust sẽ tự đẩy ra một lỗi panic cho hành vi này.
Thực tế, chúng ta vẫn có thể chủ động tạo ra lỗi panic đơn giản bằng cách gọi panic!
.
fn main() {
panic!("crash and burn");
}
Ngay lập tức chương trình sẽ bị dừng lại và chi tiết về lỗi cũng như vị trí gây ra lỗi được trả về trong console.
Compiling panic v0.1.0 (file:///projects/panic)
Finished dev [unoptimized + debuginfo] target(s) in 0.25s
Running `target/debug/panic`
thread 'main' panicked at 'crash and burn', src/main.rs:2:5
note: run with `RUST_BACKTRACE=1` environment variable to display a backtrace
Ngược lại với lỗi không thể phục hồi do đó là hành vi nguy hiểm, thì lỗi có thể phục hồi ám chỉ các lỗi có hướng để giải quyết, không nhất thiết phải dừng lại chương trình. Ví dụ như người dùng nhập vào một đoạn ký tự không hợp lệ, thay vì thoát thì có thể xuất hiện thông báo để yêu cầu họ nhập lại.
Result
là một đối tượng tạo ra lỗi có thể phục hồi. Result
là một enum
gồm có Ok
hoặc Err
đại diện cho giá trị thành công và lỗi.
enum Result<T, E> {
Ok(T),
Err(E),
}
Lấy một ví dụ về hành vi mở một tệp tin trong Rust.
use std::fs::File;
fn main() {
let greeting_file_result = File::open("hello.txt");
let greeting_file = match greeting_file_result {
Ok(file) => file,
Err(error) => panic!("Problem opening the file: {:?}", error),
};
}
File::open
trả về một Result
, nếu mở tệp thành công, Ok
có giá trị, ngược lại thì Err
chứa thông tin lỗi được trả về. Để biết được greeting_file_result
nhận giá trị Ok
hay Err
, chúng ta cần dùng match
để kiểm tra và xử lý.
Thông thường, có nhiều lý do để tạo ra lỗi như tệp không tồn tại, không có quyền đọc hoặc lỗi hệ hống... Nắm bắt được điều này, Rust cho phép tạo ra thêm các dạng của lỗi, được dùng để phân loại lỗi.
use std::fs::File;
use std::io::ErrorKind;
fn main() {
let greeting_file_result = File::open("hello.txt");
let greeting_file = match greeting_file_result {
Ok(file) => file,
Err(error) => match error.kind() {
ErrorKind::NotFound => match File::create("hello.txt") {
Ok(fc) => fc,
Err(e) => panic!("Problem creating the file: {:?}", e),
},
other_error => {
panic!("Problem opening the file: {:?}", other_error);
}
},
};
}
Cách trên xử lý lỗi hơi dài dòng, Rust cung cấp cơ chế rút gọn mã hơn đó là sử dụng unwrap
và expect
.
unwrap
trả về panic!
nếu lỗi. expect
tương tự như unwrap
, nhưng trả về được thêm thông báo lỗi do người dùng chỉ định.use std::fs::File;
fn main() {
let greeting_file = File::open("hello.txt").unwrap();
# or
let greeting_file = File::open("hello.txt")
.expect("hello.txt should be included in this project");
}
Khi tạo ra một hàm, thay vì xử lý lỗi ngay trong hàm thì Rust có một cách phổ biến hơn là trả về một đối tượng Result
. Khi đó lỗi được chuyển sang xử lý ở nơi gọi hàm, đây cũng là một cách giúp mã dễ bảo trì hơn vì tránh được các cuộc gọi panic!
ở khắp nơi trong chương trình.
use std::fs::File;
use std::io::{self, Read};
fn read_username_from_file() -> Result<String, io::Error> {
let username_file_result = File::open("hello.txt");
let mut username_file = match username_file_result {
Ok(file) => file,
Err(e) => return Err(e),
};
let mut username = String::new();
match username_file.read_to_string(&mut username) {
Ok(_) => Ok(username),
Err(e) => Err(e),
}
}
Như trong ví dụ trên, read_username_from_file
trả về một Result
.
Nhưng vẫn có quá nhiều mã được viết ra trong ví dụ trên, có thể thấy chúng ta đang phải kiểm tra giá trị Ok
và Err
liên tục bằng cách dùng match
. Hơi rắc rối đúng không? Hãy làm nó ngắn lại bằng cách sử dụng toán tử ?
.
use std::fs::File;
use std::io::{self, Read};
fn read_username_from_file() -> Result<String, io::Error> {
let mut username_file = File::open("hello.txt")?;
let mut username = String::new();
username_file.read_to_string(&mut username)?;
Ok(username)
}
Ở đây việc đặt dấu ? cam kết cho giá trị Ok, nếu bất cứ chỗ nào đẩy ra panic, chương trình sẽ dừng lại với một thông báo lỗi panic.
Tôi & khao khát "chơi chữ"
Bạn đã thử viết? Và rồi thất bại hoặc chưa ưng ý? Tại 2coffee.dev chúng tôi đã có quãng thời gian chật vật với công việc viết. Đừng nản chí, vì giờ đây chúng tôi đã có cách giúp bạn. Hãy bấm vào để trở thành hội viên ngay!
Đăng ký nhận thông báo bài viết mới
Xin chào, tôi tên là Hoài - một anh Dev kể chuyện bằng cách viết ✍️ và làm sản phẩm 🚀. Với nhiều năm kinh nghiệm lập trình, tôi đã đóng góp một phần công sức cho nhiều sản phẩm mang lại giá trị cho người dùng tại nơi đang làm việc, cũng như cho chính bản thân. Sở thích của tôi là đọc, viết, nghiên cứu... Tôi tạo ra trang Blog này với sứ mệnh mang đến những bài viết chất lượng cho độc giả của 2coffee.dev.Hãy theo dõi tôi qua các kênh LinkedIn, Facebook, Instagram, Telegram.
Bình luận (0)